Xin ông cho biết một số điểm nổi bật trong công tác quản lý nhà nước về VLXD năm 2013 vừa qua?
- Điểm nổi bật trong công tác quản lý nhà nước về VLXD năm qua là Bộ Xây dựng đã chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện đồng thời rà soát quy hoạch (QH) tổng thể phát triển VLXD đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, QH phát triển xi măng và các chương trình quốc gia về VLXD khác. Cụ thể: trong lĩnh vực xi măng, đã kiểm tra rà soát và đã đưa 9 dự án xi măng công suất dưới 2.500 tấn clinhker/ngày ra khỏi QH, giãn tiến độ đầu tư 7 dự án xi măng sang giai đoạn sau năm 2015. Sự điều chỉnh đó đã đưa cung - cầu xi măng về mức hợp lý nên trong năm 2013 vừa qua, mặc dù nền kinh tế còn nhiều khó khăn làm ảnh hưởng đến ngành sản xuất VLXD nhưng xi măng vẫn là mảng sáng.
- Về lĩnh vực vật liệu xây không nung (VLXKN), bên cạnh việc đôn đốc các địa phương triển khai thực hiện chương trình, một số địa phương còn gặp khó khăn khi thực hiện có đề xuất và đã được Bộ Xây dựng thỏa thuận lộ trình triển khai cho phù hợp. Điểm tích cực là các bộ, ngành, các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện những nhiệm vụ được phân công trong Quyết định 567 và trong Chỉ thị 10, góp phần tạo nên sự đồng bộ trong việc hoàn chỉnh cơ chế chính sách, thúc đẩy Chương trình phát triển VLXKN sớm đạt được mục tiêu đề ra.
- Năm 2013, Bộ Xây dựng đã dần từng bước QH được những sản phẩm chủ yếu khác ngoài xi măng như xây dựng QH phát triển gốm sứ xây dựng, đá ốp lát Việt Nam, QH phát triển Vôi công nghiệp đến năm 2020 và định hướng 2030. Đặc biệt, chúng tôi đang hoàn thiện Dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành cơ chế thực hiện xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất để làm nguyên liệu sản xuất VLXD giai đoạn 2013 - 2020, định hướng đến năm 2030 gửi các bộ, ngành xin ý kiến…
Năm 2013 vừa qua được đánh giá là một năm khó khăn trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh VLXD. Cá nhân ông có nhận định gì về vấn đề này?
- Thực sự là 2 năm qua, DN VLXD đã phải hoạt động trong điều kiện rất khó khăn. Tuy nhiên có thế nhận thấy, trong khó khăn đã thấy được bản lĩnh và sức vượt của DN. Đến nay, phần lớn các DN đã có kinh nghiệm vượt khó. Mỗi lĩnh vực DN đều đã có thay đổi theo hướng tích cực để phù hợp với khó khăn mà thị trường đặt ra. Bước sang năm 2014 các DN sẽ chững chạc hơn, khi thị trường hồi phục thì sẽ rất thuận lợi.
Ông nhận định như thế nào về thị trường VLXD năm 2014?
- Năm 2014, kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, lĩnh vực xây dựng nói chung và VLXD nói riêng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, xu hướng thị trường đã ấm lên, tuy chưa nhiều. Vì thế, việc sản xuất và tiêu thụ có hy vọng khởi sắc hơn.
- Năm 2014, tổng nhu cầu vật liệu xây (bao gồm gạch đất sét nung và vật liệu xây không nung) sẽ không nhiều hơn năm 2013, chỉ vào khoảng 21 tỷ viên quy tiêu chuẩn (QTC). Tuy nhiên tỷ lệ vật liệu xây không nung sẽ được sử dụng nhiều hơn năm 2013. Vì người dân, DN và cơ quan đã hiểu hơn về sản phẩm này, địa phương nào chính quyền quan tâm thì tỷ lệ sử dụng trong các công trình sẽ cao hơn, tiêu thụ sẽ thuận lợi hơn.
- Những sản phẩm cần cho hoàn thiện như gạch ốp lát sẽ tiêu thụ tốt hơn vì sau một thời gian thị trường BĐS chỉ tập trung vào xây thô giờ đã đến lúc cần hoàn thiện. Riêng đối với lĩnh vực xi măng, tiêu thụ dự kiến sẽ tăng cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh của DN sản xuất sẽ cao hơn vì năm 2014 sẽ có một số nhà máy nữa đi vào sản xuất, cung cấp ra thị trường khoảng 3 triệu tấn xi măng.
Năm tới, công tác quản lý nhà nước về VLXD sẽ tập trung vào những vấn đề gì, thưa ông?
- Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách để công tác quản lý nhà nước về VLXD ngày một hoàn thiện hơn: Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật đang soạn thảo, đề xuất xây dựng các văn bản để phủ kín các lĩnh vực còn thiếu cho phù hợp với chức năng nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Ngoài ra, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục rà soát việc thực hiện các dự án xi măng trong kế hoạch, đôn đốc các nhà máy xi măng triển khai nghiên cứu, lắp đặt thiết bị tận dụng nhiệt thừa của khí thải lò nung trong các nhà máy để phát điện, đạt mục tiêu đến năm 2015 ngành Xi măng tự túc ít nhất 20% nhu cầu điện cho sản xuất.
Xin cảm ơn ông!
Theo XDĐT (QN)