>> Đừng vội chủ quan với xuất khẩu xi măng
>> Xuất khẩu xi măng: Mục tiêu chính hay phương tiện điều tiết?
Doanh nghiệp vẫn muốn bán tài nguyên để kiếm lời
Năm 2014 Việt Nam sản xuất được 71 triệu tấn, trong đó xuất khẩu
cũng lên đến 21 triệu tấn, thu về gần 1 tỉ USD. Trong hội thảo về ngành
xi măng vừa diễn ra, một lãnh đạo Bộ Xây dựng đã bày tỏ sự ủng hộ việc
bởi tài nguyên đá vôi nước ta có đến 12 tỉ tấn, "sử
dụng cả trăm năm cũng không hết". Nhưng TS Trần Văn Huynh, khi còn là
Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Không
nước nào làm xi măng để xuất khẩu vì giá trị không cao, mặt khác đây
thực chất là xuất khẩu tài nguyên của đất nước.
Thực tế, việc xuất khẩu xi măng mới chỉ diễn ra vài năm trở lại đây khi
trong thời kỳ "đóng băng", nguồn vượt quá nhu
cầu trong nước. Bối cảnh này buộc các phải tìm đường xuất
khẩu như một "chiếc phao cứu sinh".
Không chỉ có DN ngành xi măng mới phụ thuộc vào xuất khẩu. Giữa tháng 4
năm nay, Hội DN khai thác và Chế biến quặng sắt với hàng loạt DN ở các
tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Lạng Sơn... đã có văn bản "cầu cứu" Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài
chính đề nghị giảm thuế xuất khẩu quặng sắt từ mức 40% xuống còn 5%; mở
rộng hạn ngạch xuất khẩu quặng sắt... Lý do là theo các DN này, có tới
90% số DN khai thác và chế biến quặng sắt đã phá sản và 10% DN hoạt động
cầm chừng và nguy cơ cũng phá sản. Kiến nghị này đưa ra trong bối cảnh
quặng sắt là mặt hàng hạn chế xuất khẩu.
Điều cần lưu ý, sở hữu thuế xuất khẩu quặng sắt ở mức "kịch khung" (40%)
là do tại Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24-2-2011 của Chính phủ, Chính
phủ đã giao "Bộ Tài chính nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp
đối với mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu
thô". Quặng sắt là một trong những mặt hàng nằm trong danh sách đó.
Ngoài ra, mới đây, tại Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 30-3-2015, Thủ tướng
Chính phủ đã có chỉ đạo "không xuất khẩu quặng thô".
Xuất khẩu dầu thô, than đá để "kích" tăng trưởng
Câu chuyện xuất khẩu của hay của các DN khai thác và xuất
khẩu
quặng sắt là những lát cắt cho thấy xuất khẩu tài nguyên ở nước ta
vẫn được xem trọng. Trong một báo cáo vừa công bố, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
chính thức thừa nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ trong quý I (tăng 6,03%)
chủ yếu là do đóng góp đáng kể của ngành khai khoáng mà chủ yếu là khai
thác xuất khẩu dầu thô, than đá, công nghiệp chế biến chế tạo. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư còn nhận định: Trong các quý tới nếu ngành
khai khoáng
không duy trì mức tăng như quý I thì tăng trưởng kinh tế có thể sẽ chậm
lại.
Trong một nghiên cứu vừa công bố đầu tháng 5, nhóm chuyên gia của Viện
Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã phân tích cụ thể hệ lụy của
việc tăng trưởng phụ thuộc vào xuất khẩu dầu thô. VEPR cho rằng: Do giá
giảm sâu, các DN dầu khí và xăng dầu tại Việt Nam tăng cường xuất khẩu
dầu thô và nhập khẩu sản phẩm xăng dầu qua chưng cất. Khối lượng dầu thô
xuất khẩu tăng mạnh trong quý I, đạt gần 2 triệu tấn. Việc gia tăng
xuất khẩu này chỉ có lợi nếu giá dầu thô tiếp tục giảm, nhưng khi phần
lớn dự báo nhận định giá dầu sẽ hồi phục dần và khó giảm dưới 50
USD/thùng, tăng bán dầu thô không hoàn toàn có lợi.
Thực tế, không phải quý I năm nay, kinh tế mới dựa vào dầu thô, than
đá... Vào năm 2014, việc tăng cường khai thác và xuất khẩu những mặt
hàng này đã giúp kinh tế đạt được mức tăng trưởng ở mức xấp xỉ 6%. TS Lê
Đình Ân, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế- xã hội
quốc gia cho biết: Tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2014 cao hơn
năm 2013 chủ yếu do bán thêm 1 triệu tấn dầu thô, khoảng 500.000 tấn
than. Việc này không chỉ năm 2014 mà cả mấy năm trước nếu không đạt tăng
trưởng theo kế hoạch thì phải khai thác thêm dầu thô, than đá để đạt
chỉ tiêu…
Theo tính toán của chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, trong cơ cấu nhóm
hàng xuất khẩu năm 2014, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng
sản vẫn chiếm tới 44,3% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu.
Dù đánh giá vai trò của khai thác và xuất khẩu dầu thô đối với nền kinh
tế có giảm song theo chuyên gia kinh tế TS Vũ Đình Ánh, khai thác và
xuất khẩu dầu thô nói chung, thu ngân sách Nhà nước từ dầu thô nói riêng
vẫn đóng vai trò rất quan trọng. Thậm chí, nó là cứu cánh trong một số
giai đoạn phát triển của nước ta. Chẳng hạn giai đoạn 2002-2008 dầu thô
liên tục đóng góp từ 20-30% vào tổng thu ngân sách Nhà nước.
TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển nhấn mạnh:
Tăng trưởng kinh tế không nên dựa quá nhiều vào xuất khẩu dầu thô mà
phải đổi mới mô hình tăng trưởng. Bài học từ nước Nga cho thấy, nếu dựa
quá nhiều vào xuất khẩu dầu thô, nước xuất khẩu sẽ gặp thiệt hại lớn khi
giá dầu giảm.
Theo các chuyên gia, cần tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng của nhóm sản phẩm thô và sơ chế, nhất
là tài nguyên thiên nhiên, tăng nhanh tỷ trọng của nhóm sản phẩm chế
biến, chế tạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, cần ưu tiên phát
triển ngành công nghiệp áp dụng công nghệ cao để tăng nguồn hàng xuất
khẩu có hàm lượng công nghệ cao, có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng
cao.
Theo /Báo Hải quan *