Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng trường
hợp thử nghiệm hoặc loại bỏ hoặc pha trộn với một lượng tối thiểu
tetracalcium alumino-ferrite, tricalcium silicate, dicalcium silicate và
tricalcium aluminate trong clinker. Với các thành phần này, chúng ta có
thể sản xuất clinker dùng để cho ra các loại xi măng trắng, xi măng bền
sulphate, xi măng ít hàm lượng C2S, xi măng ít hàm lượng C3S.
>> Phần 1: Clinker sản xuất xi măng trắng
Phần 2:
Các loại Clinker xi măng
Clinker xi măng ít C3STrong điều kiện hệ số bão hòa vôi thấp, nung ở nhiệt độ thấp, có thể cho ra một loại xi măng gần như không có thành phần C
3S. Trước đây khi nung ở điều kiện nhiệt độ thấp đã cho ra các loại xi măng có hàm lượng ít C
3S để sử dụng cho các công trình xây dựng có kết cấu lớn như công trình đập nước. Nhiệt độ do hydrat C
3S
tạo ra có thể gây nứt nhiệt khi có sự chênh lệch nhiệt độ giữa phần lõi
bê tông và phần bên ngoài. Trong thời gian gần đây, các loại xi măng
này hầu hết đã được thay thế bằng sự kết hợp clinker hàm lượng C
3S
cao hơn với các nguyên liệu xi măng có phản ứng chậm hơn chẳng hạn như
tro bay và xỉ buồng đốt phụ hoặc bằng đá vôi được nghiền mịn. Xét về
khía cạnh tiết kiệm khi tạo CO
2 bằng việc sử dụng đá vôi ít
hơn và nung ở nhiệt độ thấp hơn, có thể việc khám phá tìm hiểu các loại
clinker này sẽ tạo ra một xu hướng quan tâm lớn trong tương lai.
Đến
nay các loại Clinker thử nghiệm đã được đưa vào sản xuất từ tro bay có
hàm lượng vôi cao (A Guerrero, S Goni, I Campillo và A Moragues, Environ
Sci Technol, 2004, 38, p3209-3213). Hơn nữa, việc sử dụng fluorine và
khoáng hóa sulphate đã tạo điều kiện cho sản xuất clinkers có hệ số LSF
thấp bằng hoạt động phản ứng cải tiến pha C
2S.
Clinker xi măng ít C2S Xét trên thái cực ngược lại, tăng hệ số bão hòa vôi lên 100% hoặc thậm chí cao hơn, cho ra sản phẩm không có C
2S
lại là một phương án có tính khả thi khác khi sản xuất clinker chỉ có
03 thành phần chính. Các vấn để với việc tiếp liệu lò nung có LSF cao
nằm ở chỗ làm sao để có được sự kết hợp trong khu vực zôn nung và xu
hướng ở hầu hết các nhà máy là giảm hệ số bão hòa vôi để duy trì và tạo
ra ít CO
2 hơn từ quá trình can xi hóa vôi. Tuy nhiên, với các
điều kiện nhiệt độ cao liên quan gây tình trạng nhiệt bốc quá mức và
tiềm ẩn rủi ro tắc liệu trong tháp trao đổi nhiệt, dẫn đến tình trạng
thiếu ổn định và độ chắc chắn giảm. Khi dùng với clinker ít C
2S, việc sử dụng fluorine làm chất khoáng hóa có thể giảm nhiệt độ theo yêu cầu để tạo ra C
3S
và tương tự, khi kết hợp với sulphate bổ sung và alkalis trong clinker,
các đặc tính kỹ thật có thể là hàm lượng clinker của xi măng có thể bị
giảm xuống vì vậy có thể giúp giảm lượng phát thải CO
2 từ các cơ sở sản xuất xi măng.
Clinker xi măng bền sulphat Nếu
chúng ta bắt đầu loại bỏ C3A khỏi clinker xi măng, chúng ta sẽ đi vào
lĩnh vực sản xuất xi măng bền sulphat. Một lần nữa lại đang quay với quá
khứ ở một số khu vực (chẳng hạn như Châu Âu với các iêu chuẩn xi măng
mới nhất) khi mà độ bền sulphat ngày càng đạt được một cách phổ biến
thông qua việc sử dụng tro bay hoặc xỉ từ buồng đốt phụ. Tuy nhiên, một
trường hợp đặc biệt về clinker bền sulphat lại là clinker xi măng dùng
trám giếng dầu, loại sản phẩm vẫn có tầm quan trọng ở nhiều lĩnh vực.
Sự có mặt của C
3A
trong clinker là lý do để bổ sung thạch cao cho nghiền xi măng. Thạch
cao hoặc một nguồn sulphat khác được bổ sung vào clinker xi măng để làm
chậm quá trình thủy hóa diễn ra quá nhanh của C
3A khi nước được bổ sung vào xi măng. Khi không có đủ SO
3,
phản ứng này của C3A làm cho xi măng đông cứng ngay lập tức và không
thể phục hồi được, tạo ra mất khả năng sử dụng thực tế vì không có đủ
thời gian để đổ xi bê tông sau khi trộn.
SO
3 tác dụng với C
3A để tạo thành lớp vỏ bảo vệ thủy hóa nhanh đông được biết đến là quá trình là chậm phản ứng C
3A
bằng nước và cho phép thay thế bê tông. Tỷ lệ thạch cao bổ sung được
kiểm soát để làm sao sulphate được sử dụng hết trước khi C
3A
được sử dụng hết. Quan trọng là không có dư thừa sulphate vì việc tạo ra
xi măng nhanh đông là một phản ứng giãn nở, có thể làm mất độ bền và
nứt của bê tông nếu không được kiểm tra. Khi có thêm C
3A phản
ứng với quá trình thủy hóa diễn ra liên tục, xi măng đông cứng nhanh bị
tái hòa tan và chuyển thành một hợp chất ít sulphate được biết đến là
monosulphate. Monosulphat không có cùng đặc tính giãn nở như Ettringite
và vì vậy bê tông đạt mức an toàn, không bị rủi ro nữa. Tuy nhiên, nếu
vẫn còn một chút C
3A trong xi măng và bê tông dùng trong điều
kiện có sự xâm thực của nước chứa sulphat sau khi đông cứng, phản ứng
này có thể tiếp tục diễn ra và khi có nhiều Ettringite có thể làm cho
quá trình giãn nở bị tác động. Vì lý do này, phải giới hạn lượng C
3A
trong các trường hợp bê tông được sử dụng trong các điều kiện chắc chắn
bị nước chứa sulphat xâm thực, đó là có trường hợp có thể bao gồm môi
trường nước, hoặc bê tông đổ ngầm dưới đất có chứa sulphat.
Trong
điều kiện khắc nghiệt của giếng dầu, phải có các yêu cầu khác đối với
xi măng cũng như độ bền chống sulphat. Xi măng phải đáp ứng trong điều
kiện sử dụng có độ trễ khong khi bơm xuống các độ sâu lớn dưới điều kiện
áp suất để làm sao khi đến được vị trí yêu cầu thì mới đông kết.
Thực
tế cho thấy có thể vận hành một dây chuyền sản xuất clinker chỉ với 03
pha chính. Tuy nhiên, mỗi pha là một trường hợp đặc biệt, và clinker sẽ
cần phải có một cú hích để việc sản xuất được triển khai diễn ra thành
công sau này.
Tác giả: Arthur Harrisson, Anh
Người dịch : Tạ Hữu Thương – CCID
(Hết)
Nguồn: Tạp chí Thông tin KHCN-Vicem