Khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển có tiềm năng lớn
Trên Thế giới, rất nhiều nước đã thăm dò, khai thác vật liệu xây dựng từ đáy biển, sử dụng cát biển làm cốt liệu bê tông, vật liệu xây, vật liệu san lấp nuôi bờ bãi…. Hoạt động khai thác sa khoáng, khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển từ những năm 70 của thế kỷ trước, với sản lượng ngày càng tăng; một số nước sản lượng khai thác vật liệu xây dựng từ biển chiếm 10 - 30% tổng nhu cầu vật liệu xây dựng của cả nước.
Tiêu biểu như Vương quốc Anh và Bắc Ireland sử dụng một lượng lớn cát khai thác từ đáy biển: 50% lượng cát cho ngành công nghiệp xây dựng, 20% cho bảo vệ bờ biển và 30% còn lại là xuất khẩu; Pháp: trong tổng số 400 triệu tấn vật liệu xây dựng các loại sử dụng hàng năm có 1,5 - 3% lượng cát sỏi khai thác từ biển; Ở Đức, sản lượng khai thác cát biển năm 2005 khoảng 0,7 triệu m
3; Nhật Bản khai thác vật liệu xây dựng từ đáy biển khoảng 70 - 80 triệu tấn/năm...
Theo số liệu của Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển (Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam), hoạt động khai thác chủ yếu đến độ sâu 30 m nước, thường được cấp phép theo từng khu vực ở độ sâu mực nước từ 10 - 100 m, nằm cách xa bờ biển từ hơn 1,5 km; độ sâu khai thác vào đáy biển 6 - 10 m; địa tầng khai thác chủ yếu trong thành tạo Holocen và trong thành tạo Pleistocen phân bố nông. Công nghệ khai thác phổ biến là khai thác bằng gàu xúc, hút hoặc khai thác bằng cuốc, trong đó khai thác bằng hệ thống đào phá vật liệu - bơm hút đặt trên tàu rất phổ biến, hiệu quả.
Công tác điều tra địa chất về khoáng sản rắn đáy biển ở Việt Nam đã được thực hiện trong gần 30 năm qua. Theo các kết quả điều tra, nghiên cứu hiện có, vùng biển từ 0 - 100 m nước nước ta có tiềm năng lớn về khoáng sản vật liệu xây dựng; đã xác định được 30 vùng triển vọng với tổng tài nguyên dự báo gần 150 tỷ m
3; trong đó các vùng biển tỉnh Bình Thuận và Bà Rịa - Vũng Tàu, vùng biển Sóc Trăng, vùng biển Phú Quốc - Hà Tiên, vùng biển Hải Phòng - Quảng Ninh… rất triển vọng, có thể quy hoạch thăm dò, khai thác.
Đẩy mạnh thăm dò và khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển
Việc nghiên cứu, tìm công nghệ để sử dụng cát biển trong xây dựng ở nước ta đã được nhiều cơ sở, nhiều nhà khoa học tiến hành từ những năm 2004 và đã đạt được nhiều kết quả khả quan; khẳng định có thể khai thác cát biển, xử lý, sử dụng làm vật liệu xây dựng. Hiện nay, công nghệ khai thác, sử dụng khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển trên thế giới khá phổ biến, hoàn toàn khả thi khi áp dụng cho vùng biển Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao trên toàn cầu, đặc biệt tại khu vực Nam Bộ, các biện pháp công trình như làm đê chắn, các công trình ven biển là biện pháp cần thiết và cấp bách nhất cần sớm thực hiện. Các biện pháp công trình đòi hỏi cần có nguồn cung cấp vật liệu san lấp, vật liệu xây dựng rất lớn. Theo Liên đoàn Địa chất và Khoáng sản biển, để thay thế và đáp ứng đủ cho nhu cầu vật liệu xây dựng cho xây dựng cở sở hạ tầng các vùng kinh tế ven biển cả nước, cần đẩy mạnh hoạt động điều tra, nghiên cứu, tiến đến thăm dò, khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển.
Liên đoàn đề xuất tiếp tục đẩy mạnh hoạt động điều tra, đánh giá khoáng sản nhằm làm rõ tiềm năng, chất lượng và khả năng khai thác sử dụng khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển các vùng biển ven bờ, trước hết tập trung cho các vùng biển triển vọng khoáng sản và vùng bờ có nhu cầu vật liệu xây dựng cao; điều tra, đánh giá làm rõ các đặc trưng về địa chất môi trường, địa chất tai biến và đánh giá được ảnh hưởng của tác động khai thác khoáng sản đến môi trường sinh thái làm cơ sở đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác, bảo vệ môi trường.
Đồng thời, cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, áp dụng công nghệ tiên tiến trong khai thác khoáng sản đáy biển; nghiên cứu công nghệ sử dụng cát biển không chỉ để làm vật liệu san lấp mà còn sử dụng làm nguyên liệu bê tông, vật liệu xây; nghiên cứu, xã hội hóa công tác điều tra khoáng sản vật liệu xây dựng gắn với thăm dò, khai thác vật liệu xây dựng ở một số vùng biển.
Ngoài ra, xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về đánh giá, thăm dò khoáng sản rắn đáy biển; tiêu chuẩn sử dụng cát nhiễm mặn làm vật liệu xây dựng; tiêu chuẩn sử dụng cho công trình xây dựng biển và hải đảo; tiêu chuẩn sử dụng dùng cho san lấp mở rộng và cải tạo biển, đảo; các quy định về quản lý, khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng ở biển.
VLXD.org (TH/ TNMT)