Xi măng nở là loại xi măng đặc biệt khi trộn với nước tạo thành một hỗn hợp có xu hướng tăng khối lượng đến một mức độ lớn đáng kể so với xi măng Portland. Sự mở rộng của vữa xi măng hoặc bê tông có thể bù đắp cho tổn thất co ngót.
Xi măng nở được sử dụng để sửa chữa cấu trúc bê tông.
Quá trình nở giống với xi măng Portland, nhưng các nguyên liệu thô được sử dụng để tạo thành clinker thì khác nhau. Đầu tiên đá vôi và đất sét được nung nóng ở nhiệt độ khoảng 1.426
oC và clinker được hình thành. Trong bước tiếp theo, canxi sunfat và bauxite được nung ở nhiệt độ 1.260
oC, tạo ra các clinker sulfoaluminate. Hai loại clinker này được kết hợp với nhau để tạo thành xi măng nở. Khi xi măng nở tiếp xúc với nước, sulfoaluminate sẽ mở rộng về khối lượng.
Xi măng nở có 3 loại, loại K, M và S. Theo đó, nguyên liệu thô của loại K chứa xi măng Portland, anhydrous tetracalcium trialuminate sulfate (C
4A
3S), calcium sulfate (CaSO
4) và vôi (CaO).
Các clinker của xi măng Portland trong loại M được kết hợp với canxi sulfat. Trong xi măng nở loại S, một loại xi măng Portland có chứa hàm lượng cao tricalcium aluminate (C
3A) và canxi sulfat hơn xi măng Portland thông thường.
Xi măng nở được sử dụng để xây dựng các tấm sàn lớn. Nó hoạt động tốt để lấp các lỗ rỗng trên nền móng . Xi măng nở được sử dụng để xây dựng các cấu trúc giữ nước, cầu và các tòa nhà, dùng để sửa chữa các bề mặt bê tông bị hư hỏng…
Một số thuộc tính của xi măng nở bao gồm thời gian cài đặt khoảng 75 phút; chứa 12% không khí; nở trong 7 ngày, nở tối thiểu 0,04% và tối đa 0,10%; cường độ nén sau 7 ngày là 14,7Mpa và sau 28 ngày là 24,5Mpa.
VLXD.org (TH/ Xây dựng)
Ý kiến của bạn