Cá cược game - Game Thể Thao 24H

Thông báo Việc làm Hỏi đáp chuyên ngành

Diễn đàn Vật liệu xây dựng BMF

Đánh giá ngành VLXD sau 30 năm đổi mới dưới góc độ phát triển bền vững

04/05/2018 - 02:54 CH

Sau 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (VLXD), đã có sự phát triển vượt bậc. Trong những năm gần đây tốc độ đầu tư sản xuất các sản phẩm VLXD tại Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao. Nhờ đó đã đưa Việt Nam từ nước phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm vật liệu xây dựng phục vụ xây dựng trong nước, đến nay sản xuất đã đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng và còn dư khoảng từ 10 - 30% công suất phục vụ cho xuất khẩu. 
I. Tổng quan về ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng 30 năm đổi mới dưới góc độ phát triển bền vững

Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng có ý nghĩa trọng đại trong sự nghiệp phát triển của đất nước nói chung và ngành công nghiệp sản xuất VLXD nói riêng. Ngành công nghiệp sản xuất VLXD của chúng ta đã có bước phát triển đột phá trên tất cả các lĩnh vực. Sản lượng, chất lượng các sản phẩm VLXD không ngừng được nâng cao, nhiều công nghệ mới, tiên tiến, thiết bị hiện đại ngang tầm với thế giới và khu vực được đầu tư. Đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, quản lý kinh tế và ma kết tinh không ngừng tăng lên. Sản xuất nhỏ lẻ, manh múm, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường từng bước được thay thế bằng các dây chuyền công nghệ tiên tiến, đồng bộ  làm thay đổi bộ mặt của ngành sản xuất VLXD. VLXD Việt Nam từ chỗ không đáp ứng được nhu cầu trong nước, tiến đến đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và có dư để xuất khẩu. 

Về vấn đề phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, từ năm 1987 đến nay, chúng ta có thể chia quá trình phát triển VLXD Việt Nam thành 3 giai đoạn:

1. Giai đoạn 1987 - 1999

Nguồn cung VLXD chưa đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước, Nhà nước có chính sách ưu tiên phát triển nguồn cung.

Nhiều chủng loại VLXD vẫn phải nhập từ nước ngoài. Riêng lĩnh vực xi măng, có năm cả nước phải nhập tới trên 30% sản lượng tiêu thụ (năm 1995 cả nước phải nhập 2,63 triệu tấn sản phẩm xi măng chiếm 36% tổng lượng xi măng tiêu thụ trong phạm vi cả nước. Các cơ sở sản xuất phần lớn là nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong thời gian từ 1993- 1997 cả nước đã đầu tư trên 50 dây chuyền xi măng lò đứng với công suất từ 7- 8,2 vạn tấn/năm. Công nghệ lò quay cũng đã được đầu tư, nhưng cũng chỉ có một số ít nhà máy xi măng có công suất trên 1 triệu tấn/năm. Còn lại là các dây chuyền lò quay công suất từ 350 đến 910 ngàn tấn/năm. Nhà nước chưa có những chính sách về phát triển bền vững.

2. Giai đoạn 2000 - 2009

Nguồn cung VLXD đã tăng cao so với giai đoạn trước. Nhưng do tăng trưởng về đầu tư xây dựng cao, luôn ở mức trên 10% nên nguồn cung nhiều chúng loại VLXD vẫn chưa đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Nhà nước vẫn có chính sách ưu đãi đầu tư các cơ sở sản xuất VLXD, tuy nhiên đã có những quy định nhằm hạn chế khói bụi và tiết kiệm năng lượng trong sản xuất.

Nhiều chủng loại VLXD vẫn phải nhập khẩu, trong đó có xi măng. Giai đoạn này, hàng năm cả nước phải nhập từ 3,5 đến 4,5 triệu tấn clinke để đáp ứng nhu cầu xi măng nội địa. Một số chủng loại VLXD đã được sản xuất trên dây chuyền và công nghệ hiện đại, đã thỏa mãn nhu cầu trong nước cả về số lượng và chất lượng, đã được xuất khẩu như gạch ốp lát, sứ vệ sinh, kính xây dựng...

Trong thời gian này, tại các văn bản pháp luật, văn bản điều hành của Thủ tướng Chính phủ đã có một số quy định nhằm giảm khói bụi, tiết kiệm năng lượng. 

Nghị định số 124/2007/NDD-CP ngày 31/7/2007 của Chính phủ về quản lý vật liệu xây dựng.

Quyết định 108/2005/QĐ- TTg ngày 16/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Trong mục đầu tư dự án xi măng mới, Quy hoạch quy định các chỉ tiêu kỹ thuật trong sản xuất xi măng: 

-  Tiêu hao nhiệt dưới 730 kcal/kg clanhke;

- Tiêu hao điện dưới 95 kwh/tấn xi măng;

- Nồng độ bụi dưới 50mg/Nm3.

Quyết định số 121/2008/QĐ- TTg ngày 29/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020. Quy hoạch đã có định hướng đến việc đổ mới công nghệ, nâng cao chất lượng, tiết kiệm nguyên nhiên liệu và đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường.

3. Giai đoạn 2010 - 2017

Giai đoạn cung vượt cầu; Nhà nước đã có những chính sách mạnh mẽ nhằm phát triển bền vững, giảm phát thải, hạn chế ô nhiễm thông qua việc sản xuất sạch và sản phẩm thân thiện, đồng thời có chính sách để ngành sản xuất VLXD góp phần tích cực vào việc giảm phế thải cho các ngành sản xuất khác.

Đầu năm 2010 thế giới và Việt Nam chứng kiến khủng hoảng nợ công châu Âu (2009 - 2014) và cùng chịu ảnh hưởng tiêu cực về phát triển kinh tế. Trong khi Nhà nước ta cũng đang áp dụng chính sách xiết chặt đầu tư công; thị trường bất động sản bị trầm lắng. Đầu tư nước ngoài giảm, vốn để đầu tư trong nước khó khăn, lãi suất ngân hàng tăng vọt, một loạt dự án đã đến thời kỳ trả nợ vốn vay các ngân hang nước ngoài... Có thể nói chưa bao giờ các doanh nghiệp sản xuất VLXD của chúng ta lại lâm vào tỉnh cảnh khó khăn như giai đoạn giữa 2010 đến cuối 2013. Tình trạng hàng tồn đầy kho là phổ biến đối với các doanh nghiệp sản xuất VLXD trên cả nước. 

Trong khó khăn các doanh nghiệp xây dựng nói chung và các doanh nghiệp sản xuất VLXD đã nỗ lực vượt khó. Để tồn tại và phát triển, các đơn vị đã phải tìm mọi biện pháp để giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh. Việc sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước và các thương vụ mua bán cũng như sát nhập doanh nghiệp sản xuất VLXD tư nhân đã diễn ra thành công trong thời gian này.

Về chính sách, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản:

Ngày 28/4/2010 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 567 về Chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020. 

Ngày 16/4/2012 Thủ tướng đã ra Chỉ thị số 10 về tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung. Đây là chủ trương  đột phá tích cực trong việc sản xuất sạch và sử dụng vật liệu xây thân thiện của Việt Nam. 
Ngày 29/8/2011 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1488 phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch xi măng đến năm 2020).

Ngày 22/8/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1469 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng của Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.

Ngày 23/9/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1696 về một số giải pháp thực hiện xử lý tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất phân bón để làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Ngày 12/4/2017 Thủ tướng đã ra Quyết định số 452 phê duyệt Đề án đẩy mạnh xử lý, sử dụng tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất, phân bón làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và trong các công trình xây dựng.

Lần đầu tiên, vấn đề phế thải của các nhà máy nhiệt điện, nhà máy hóa chất phân bón được Chính phủ quy định chặt chẽ, mạnh mẽ trong việc xử lý để làm nguyên liệu sản xuất VLXD.

Ngày 5/4/2016 Chính phủ đã ban hành Nghị định 24a về quản lý vật liệu xây dựng. Tại khoản 5, điều 3 của Nghị định đã quy định: “Vật liệu xây dựng Tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, Tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường bao gồm: Vật liệu xây không nung, vật liệu xây dựng được sản xuất từ việc sử dụng chất thải làm nguyên liệu hoặc nhiên liệu, vật liệu xây dựng có tính năng Tiết kiệm năng lượng vượt trội so với vật liệu cùng chủng loại.” Đây cũng là lần đầu tiên tại 1 văn bản quy phạm pháp luật và là văn bản ở mức Nghị định, vật liệu xây dựng thân thiện đã được định nghĩa. Nghị định cũng dành trọn 1 chương (chương 5) quy định chính sách phát triển loại VLXD này.

Qua quy định chúng ta thấy rằng, vật liệu xây dựng thân thiện là đối tượng được chú ý cả tới quá trình sản xuất ra nó.
 

Phải dứt khoát loại bỏ gạch đất sét nung sản xuất từ lò thủ công, thủ công cải tiến, loại vật liệu gây ô nhiễm nặng nề. Mặt khác bảo toàn quỹ đất canh tác ngày càng khan hiếm...

Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam đã tích cực tuyên truyền vận động; các doanh nghiệp sản xuất VLXD trên cả nước đã hưởng ứng tích cực chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển VLXD thân thiện. Tuy nhiên đây cũng là một quá trình khó khăn và không kém phần cam go. 

Dưới đây sẽ là tình hình đầu tư, sản xuất, sử dụng VLXD thân thiện từ năm 2010 đến nay và những bài học.

II. Tình hình đầu tư, sản xuất và sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện môi trường trong thời gian qua

Về tiêu thụ VLXKN năm 2015, nếu tính bình quân cả nước và các loại VLXKN nói chung thì con số sử dụng năm 2015 là 4,98 tỷ viên QTC trên tổng số 23 tỷ viên vật liệu xây được sử dụng, đạt 21%. Như vậy chỉ tiêu thứ nhất của Chương trình 567 là tỷ lệ sử dụng bình quân trong cả nước đã đạt (Chương trình đề ra là ít nhất đạt 20% trên tổng số vật liệu xây được sử dụng);

Tỷ lệ gạch nhẹ đang ở tỷ lệ thấp, chỉ mới khoảng gần 10% trên tổng số VLXKN, mà mục tiêu đề ra là trên 20%. Đây là chỉ tiêu quan trọng thứ hai trong Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. Nhưng là tiêu chí quan trọng, nhằm khuyến khích tạo ra công trình xanh. 

Qua số liệu của Bộ Xây dựng về kết quả tiêu thụ năm 2017, chúng ta thấy rằng: Tỷ lệ sử dụng VLXKN nói chung trên cả nước đã đạt được mục tiêu thứ nhất của Chương trình phát triển vật liệu xây không nung được ban hành theo tại Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên VLXKN loại nhẹ là loại VLXD có tính năng cách âm, cách nhiệt tốt thì tỷ lệ sử dụng thực tế lại đang quá thấp so với mục tiêu Chương trình; còn nhiều địa phương có tỷ lệ sử dụng VLXKN quá thấp…
 

Gạch bê tông khí chưng áp (AAC) – loại vật liệu thân thiện môi trường, tiết kiệm năng lượng và có lợi cho sức khỏe con người lại đang ít được sử dụng ở Việt Nam.

 
Về sử dụng kính tiết kiệm năng lượng, ngày càng có nhiều khối nhà cao tầng sử dụng kính tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên vẫn chưa phải tất cả các dự án nhà cao tầng đều sử dụng kính tiết kiệm năng lượng, trong khi Quy chuẩn Việt Nam số 09:2013/BXD về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về các công trình xây dựng sử dụng năng lượng hiệu quả, đã quy định việc hạn chế bức xạ mặt trời. 

III. Các cản trở, vướng mắc trong việc sử dụng VLXD thân thiện môi trường

Có 3 cản trở chính gây khó khăn (từ góc độ chủ quan của người thực hiện):

Thứ nhất, là thói quen. Thay thế cái cũ bằng cái mới thì bao giờ cũng khó khăn;

Thứ hai, là lợi ích, lợi ích của việc sản xuất, sử dụng vật liệu cũ sẽ bị động chạm khi bị vật liệu mới thay thế;

Thứ ba, tính tùy tiện vẫn còn trong thiết kế và thi công công trình: Các vết nứt, khuyết tật tại những mảng tường khi sử dụng VLXKN trong thời gian vừa qua cho thấy người thi công đã không thực hiện đúng kỹ thuật trong sử dụng VLXKN; Nhiều công trình thiết kế sử dụng gạch bê tông khí chưng áp, nhưng người thiết kế không chỉ rõ cần phải gia cường những điểm xung yếu, hoặc sử dụng lưới sợi tại những điểm cần thiết, trong khi kỹ thuật thi công cũng chưa có am hiểu thấu đáo về loại VL này. Tại công trường sử dụng gạch bê tông khí chưng áp (AAC), người thợ xây vẫn sử dụng các dụng cụ như xây gạch đất sét nung hay gạch xi măng cốt liệu...
 

Thay đổi thói quen là một điều không dễ. Nhưng theo thời gian, sự bền bỉ của cơ quan quản lý, nhà sản xuất đã dần thuyết phục người dân.

Có 3 vướng mắc góp phần gây chậm trễ trong thực hiện (từ góc độ quản lý):

Thứ nhất, đang thiếu một số hướng dẫn trong cơ chế chính sách: Nhiều quy định tưởng chừng rất cụ thể, nhưng khi áp dụng nhiều địa phương không thực hiện được, ví dụ như vay vốn ưu đãi đầu tư;

Thứ hai, đang thiếu vắng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật cần thiết: Một số TCKT, định mức kinh tế kỹ thuật cần thiết vẫn chưa được ban hành, hoặc chưa được điều chỉnh kịp thời;

Thứ ba, việc phát triển công trình xanh của nước ta chưa được quan tâm thích đáng.
 
IV. Giải pháp thúc đẩy sử dụng vật liệu thân thiện môi trường trong xây dựng công trình 

1. Giải pháp về cơ chế chính sách

Cần bổ sung các hướng dẫn cần thiết về hỗ trợ và ưu đãi đầu tư mà Nghị định 24a đã quy định; 

Cần điều chỉnh một số điểm trong Thông tư 09 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng; 

Có chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp phát triển nhà ở chuyển hướng sang đầu tư công trình xanh;

2. Giải pháp về khung kỹ thuật

Các cơ quan chức năng cần ban hành đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật liên quan đến sản phẩm, đến việc sử dụng VLXD thân thiện.

3. Giải pháp về đào tạo

Phải có chương trình giảng dạy tại các trường chuyên ngành xây dựng về thiết kế, thi công sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện; Cần có sự cập nhật, cải tiến trong biên soạn giáo trình.

Khuyến khích, hỗ trợ các trường, các trung tâm dạy nghề mở các khóa đào tạo ngắn hạn kỹ thuật cho công nhân sử dụng VLXKN.

4. Gải pháp về công nghệ thi công

Cần bổ sung chính sách để khuyến khích sử dụng công nghệ thi công tiên tiến, nhằm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động trong sử dụng vật liệu xây dựng thân thiện.

5. Công tác tuyên truyền

Để lướt được qua các cản trở, khắc phục được các vướng mắc như đã nêu ở trên thì công tác tuyên truyền có vai trò rất lớn.

6. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành trên cả nước, giữa các lĩnh vực ngay trong Ngành Xây dựng và sự chỉ đạo quyết liệt của địa phương

Nhìn lại 30 năm phát triển, chúng ta thấy rằng, để sản xuất đủ và tiêu thụ hết sản phẩm VLXD nói chung, bản thân cơ chế thị trường có thể hoàn toàn tự điều tiết. Bên cạnh đó, để sản xuất sạch hơn, phát triển được sản phẩm VLXD thân thiện môi trường thì thị trường không thể tự điều tiết. 

Phát triển bền vững cần những chính sách phù hợp của Nhà nước, sự vào cuộc của cả xã hội, trong đó đặc biệt quan trọng là sự chỉ đạo quyết liệt của địa phương. Ở góc độ quản lý, các chính sách đưa ra cần được nghiên cứu kỹ, tạo ra cơ chế thông thoáng để khai thác hết tiềm năng của thị trường, khả năng nguồn lực của Doanh nghiệp; nhưng mặt khác, các chế tài cần rõ ràng minh bạch, đủ sức răn đe các hành vi vi phạm đến các quy định về tiêu chuẩn hàng hóa, ô nhiễm môi trường.

ThS. Lê Văn Tới - P. Chủ tịch Hội Vật liệu Xây dựng Việt Nam

Ý kiến của bạn

Tin liên quan

Thương hiệu vật liệu xây dựng