>> Xu hướng phát triển của vật liệu kính và xi măng ở Việt Nam (P1)
>> Xu hướng phát triển của vật liệu kính và xi măng ở Việt Nam (P2)
2.2. Kính xây dựng
Kính xây dựng là sản phẩm kính được làm từ thủy tinh dạng tấm và được sử dụng trong xây dựng. Trong xây dựng, người ta thường hay sử dụng các loại kính: kính chịu lực, kính thủy lực, kính cường lực… Với những đặc trưng riêng, kính xây dựng mang lại ưu việt vượt trội, các sản phẩm kính xây dựng đang phủ khắp các công trình lớn, nhỏ từ các nhà cao tầng, trung tâm thương mại, khách sạn, bến tàu xe hay sân bay cho đến các công trình nhà ở dân dụng.
So với các nước phát triển về công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng, nước ta thuộc nhóm đầu tư muộn về công nghệ sản xuất kính nhưng đã nhanh chóng tiếp cận được với công nghệ tiên tiến của thế giới trong sản xuất kính phẳng như: công nghệ kính nổi (Float) tiên tiến nhất hiện nay, trong công nghệ gia công kính tôi nhiệt an toàn, kính dán an toàn nhiều lớp, kính màu, kính gương, kính hộp… Song song với việc đầu tư công nghệ tiên tiến, năng lực vận hành sản xuất, làm chủ công nghệ của đội ngũ cán bộ, công nhân trong sản xuất kính cũng ngày một nâng cao. Bên cạnh điều kiện về nguyên liệu và đầu tư công nghệ, Việt Nam là một thị trường tiêu thụ rất lớn với hơn 90 triệu dân, đang trong giai đoạn đẩy mạnh công cuộc xây dựng, tái thiết đất nước với tốc độ đô thị hóa nhanh. Thị trường lớn là cơ sở để đầu tư các dây chuyền sản xuất quy mô lớn, công nghệ hiện đại.
Việc đưa các sản phẩm kính xây dựng ứng dụng rộng rãi trong kiến trúc đã tạo điều kiện thuận lợi để các kiến trúc sư thả trí tưởng tượng của mình trong sáng tạo kiến trúc nội ngoại thất, kéo theo đó là cuộc chạy đua xây nhà chọc trời khởi nguồn từ Mỹ và nay là Đông Á, Trung Á, Nga… Kính xây dựng đã góp công lớn xây xây nên một nền kiến trúc hiện đại, với những tòa nhà siêu cao tầng bền đẹp với thời gian. Đó là những công trình như tòa nhà AT&T ở New York do kiến trúc sư người Mỹ, Philip Jonson, thiết kế theo dòng kiến trúc hậu hiện đại; tòa nhà ngân hàng Trung Hoa ở Hồng Kông do kiến trúc sư người Mỹ gốc Trung Quốc, I.M Pei, thiết kế; tòa tháp đôi Petronas ở Maylaysia. Ở Việt Nam cũng có một số công trình chọc trời như công trình tháp Bitexco khởi công năm 2005 ở TP. Hồ Chí Minh với 68 tầng và chiều cao tổng cộng là 300 m…
Các công nghệ sản xuất kính lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên liệu, sản phẩm chất lượng không cao, khả năng cạnh tranh thấp (công nghệ kính kéo đứng, kéo ngang) đang dần được thay thế, nhường chỗ cho công nghệ kính nổi float. Đây là công nghệ sản xuất kính tiên tiến hiện nay của thế giới bằng cách kéo thủy tinh nóng chảy qua bề mặt thiếc nóng chảy. Phương pháp này tạo ra tấm kính có độ phẳng cao, kích thước chiều dài, chiều rộng, chiều dày lớn, có thể sản xuất được cả kính màu, ngoài ra còn nhiều ưu việt khác.
Đến năm 2010, tổng năng lực các cơ sở sản xuất kính của Việt Nam đạt 169,5 triệu m
2 quy tiêu chuẩn, trong đó 81% là kính nổi. Công nghệ gia công kính (sản phẩm sau kính) cũng được đầu tư phát triển nhanh. Các sản phẩm gia công sau kính rất đa dạng, nhiều mẫu mã, màu sắc, kiểu dáng. Ngoài các sản phẩm phục vụ nhu cầu kiến trúc xây dựng cũng hết sức phong phú gồm: kính tôi nhiệt an toàn, kính dán an toàn, kính bảo ôn, kính phản quang, kính mờ, kính mozaic, gạch kính, gương soi. Kính được đưa vào các công trình kiến trúc xây dựng dưới dạng hệ tường vách kính với thanh định hình. Hệ tường vách kính bao gồm kính được gắn trên thanh định hình bằng hợp kim nhôm, thép, hoặc nhựa lõi thép. Có nhiều phương pháp liên kết giữa kính với thanh định hình như: kính gắn vào hệ khung bằng các thanh đố ngang và dọc (hệ hở) hoặc làm bằng liên kết (hệ kín). Hệ tường vách kính liên kết với kết cấu chịu lực, tường của công trình theo các phương pháp treo hoặc tự chịu lực. Hệ treo được bố trí nằm phía bên ngoài các kết cấu chịu lực và được liên kết chủ yếu vào các dầm của các tầng. Hệ tự chịu lực thông thường được kê lên sàn, có chiều cao từ sàn đến dầm và chiều rộng bằng bước cột hoặc tường. Kính sử dụng trong hệ vách kính đối với các công trình cao tầng trước hết phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng an toàn theo quy định của Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, bức xạ mặt trời cao như ở Việt Nam thì hiện tượng hiệu ứng nhà kính sẽ làm tăng nhiệt độ không khí bên trong công trình, ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt. Để giảm thiểu tác động bất lợi trên cần sử dụng các loại kính đặc biệt, kính hai lớp, kính phản quang… Để giảm các chi phí lau chùi, cọ rửa kính sử dụng trong kiến trúc nên là loại kính có khả năng tự làm sạch.
3. Kết luận
Sự biến đổi của khí hậu đã làm cho môi trường sống của con người ngày càng bị đe dọa. Đứng trước nguy cơ đó, các quốc gia đang chú trọng phát triển kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngành sản xuất vật liệu xây dựng cũng đang ngày càng thay đổi để đáp ứng một cách tốt hơn.
Các công trình xây dựng ngày càng được chú trọng đến độ bền chịu lực, độ bền theo thời gian, tiết kiệm năng lượng, chi phí sản xuất, xây lắp. Đặc biệt, phải thích ứng với khí hậu tại nơi xây dựng công trình. Vì vậy, một số định hướng chính về phát triển vật liệu xây dựng trong tương lai cần tập trung đối với các chủng loại vật liệu xây dựng thông minh, vật liệu xây dựng mới… Nhu cầu vật liệu xanh ở Việt Nam đang tăng nhanh trong 5 năm trở lại đây, ở mức 10 - 12%. Dự kiến đến năm 2020, thị trường sẽ phải đáp ứng đủ nhu cầu 42 tỷ viên gạch quy chuẩn “xanh” nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước.
Hiện nay, ngành vật liệu xây dựng đã sản xuất được một số sản phẩm thông minh như xốp cách nhiệt, tấm lợp sinh thái, gạch bê tông nhẹ, tấm ốp đất sét nung, ngói tráng men, gỗ ốp tường xanh, xi măng xanh, gạch ốp lát tái chế... Bên cạnh việc nghiên cứu để sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng mới thân thiện với môi trường, các sản phẩm vật liệu xây dựng truyền thống như xi măng, gạch ốp lát, sứ vệ sinh, thép, kính... cũng cần phải có sự thay đổi về công nghệ sản xuất để tăng độ bền, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm chi phí sản xuất, xây lắp và đặc biệt là phải thích ứng với khí hậu tại nơi xây dựng công trình.
(TS. Nguyễn Thị Kim Chi - Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội)
VLXD.org