Nhìn
vào biểu đồ cho thấy, Quý I lượng xuất khẩu khá tốt, trung bình trên 2
triệu tấn/tháng. Giữa Quý II, có sự tụt giảm khá mạnh, đặc biệt bắt đầu
từ tháng 5/2014. Tháng 5 xuất khẩu giảm 22,6% so với tháng 4. Điều này
được lý giải bởi sự kiện giàn khoan HD981 của Trung Quốc đã gây căng
thẳng cho hàng hải khu vực. Các hãng vận tải biển e ngại và hạn chế đi
lại hơn, dù các hợp đồng xuất khẩu đã được ký trước đó.
Từ tháng 5
đến nay (giữ Quý IV), sản lượng xuất khẩu tăng giảm với biên độ không
lớn, dao động trên dưới giá trị trung bình là 1,5 triệu tấn/tháng, giảm
mạnh so với Quý I.
Điều này được lý giải bởi một số nguyên nhân
như các các hãng vận tải vẫn còn tâm lý e ngại tình hình bất ổn tại Biển
Đông nên hạn chế điều tàu tải trọng lớn. Mặt khác việc Chính phủ triển
khai chiến dịch siết chặt quy định về tải trọng đường bộ cũng ảnh hưởng
đáng kể đến dòng lưu thông hàng hóa phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, thị
trường trong nước có dấu hiệu khởi sắc, các nhà sản xuất quay lại thúc
đẩy tiêu thụ nội địa, nhằm giảm chi phí vận tải và thu lợi nhuận tốt
hơn.
Xác định lại mục tiêuThực tế thời gian qua
khi thị trường nội địa giảm cầu, nhiều doanh nghiệp
xi măng đã lựa chọn
giải pháp xuất khẩu để giảm tồn kho, duy trì sản xuất. Trừ một số nhà
máy thuận lợi về cảng biển, đa phần các doanh nghiệp khác quá vất vả
trong việc triển khai xuất hàng đi các thị trường nước ngoài. Xi măng là
sản phẩm hàng hóa có tỷ trọng lớn. Hệ thống hạ tầng như cầu cảng, bến
bãi, đường xá… của Việt Nam chưa thật sự đáp ứng. Đường bộ chất lượng
kém, phương tiện vận tải chưa chuẩn mực và gánh quá nhiều các loại chi
phí làm luật. Thủ tục hải quan còn nhiều bất cập. Việc kết nối của các
cảng biển và các hãng vận tải biến với tàu tải trọng lớn của nước ngoài
thật sự chưa tốt, ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng chủ động và tăng chi
phí cho doanh nghiệp.
Khâu kiểm soát
chất lượng xi măng, clinker
xuất đi cũng còn nhiều vấn đề. Các chuyến hàng xuất đi của các doanh
nghiệp có nhãn hiệu khác nhau vào cùng một thị trường hoặc các lô hàng
khác nhau của cùng một thương hiệu hay có chất lượng khác nhau, thiếu ổn
định. Khi vào cùng một thị trường, các doanh nghiệp trong nước có thể
đã thiếu thông tin của nhau và không có sự liên kết để có thể hỗ trợ
nhau trong quá trình xuất khẩu. Hoặc khi đã có hợp đồng, các lô hàng đầu
tiên có thể đạt chất lượng tốt, các doanh nghiệp chủ quan buông lỏng
kiểm soát dẫn đến các lô sau chất lượng không tốt, thậm chí không đạt
yêu cầu. Ví dụ điển hình như tại thị trường Myanmar, một thị trường mới
nổi và tràn ngập các dự án đầu tư xây dựng, các dự án xây dựng hạ tầng
và khu đô thị của chính các nhà đầu tư Việt Nam lại phải sử dụng
xi măng
nhập khẩu từ Thái Lan.
Xuất
khẩu có thể giải quyết đầu ra trong ngắn hạn, nhưng chắc chắn, không
phải là vấn đề sống còn của doanh nghiệp Kinh nghiệm cũng cho thấy, các doanh
nghiệp Việt Nam khá nhanh nhạy trong tìm kiếm thị trường
xuất khẩu và
nhanh chóng thuyết phục được khách hàng ở các châu lục xa xôi như châu
Phi, Mỹ La tinh, Trung Đông… Nhưng để giữ được thị trường, tạo dựng lòng
tin lâu dài, bền vững cần sự nỗ lực hơn rất nhiều. Mỗi khu vực thị
trường ở các phương trời xa, DN đã lao tâm khổ tứ, tốn kém rất nhiều
nguồn lực thâm nhập thị trường, mà sau đó không giữ được thì đó là một
điều đáng tiếc.
Tuy vậy, xuất khẩu có nằm trong chiến lược dài
hạn của doanh nghiệp không, đó là vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng. Xuất
khẩu có thể giải quyết đầu ra trong ngắn hạn, nhưng chắc chắn, không
phải là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Hầu hết các nhà sản xuất xi
măng Việt Nam đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất là nhắm tới thị trường
trong nước. Đó mới là thị trường mục tiêu và còn đầy tiềm năng. Thị
trường nội địa với các ưu thế như hệ thống cơ sở hạ tầng mới đang bắt
đầu xây dựng, các thị trường quen thuộc, thói quen tiêu dùng, giảm thiểu
chi phí vận tải, giảm các rủi ro thị trường… sẽ giúp doanh nghiệp có
thể tiêu thụ và tìm kiếm lợi nhuận hiệu quả hơn.
Cho nên, khi thị
trường trong nước có dấu hiệu khởi sắc, các doanh nghiệp xi măng cần
quay lại rà soát, đánh giá lại mục tiêu chiến lược, tái cấu trúc doanh
nghiệp cho thật chủ động linh hoạt, tổ chức lại các kênh phân phối,
chiến lược marketing thật chắc chắn… để tiếp tục chiếm lĩnh thị trường
nội địa.
Lương Xuân Tuân -