1. Theo dung trọng bê tông (mv) + Bê tông đặc biệt nặng có mv > 2500 kg/m3
+ Bê tông nặng (còn gọi là bê tông thường) có mv = 1800-2500 kg/m3
+ Bê tông nhẹ có m, = 600-1800 kg/m3
+ Bê tông đặc biệt nhẹ có mv < 600 kg/m3
Các loại bê tông đặc biệt nặng chế tạo bằng các cốt liệu nặng - thoi sắt hoặc các vảy cán thép (bê tông thép), quặng sắt (bê tông magiêtit và limonhit) hoặc quặng barit (bêtông barit).
Trong xây dựng bê tông nặng được sử dụng rộng rãi nhất có dung trọng 2100-2500 kg/m3 sử dụng cốt liệu nặng đặc chắc từ đá (granit, đá vôi, điabaz V.V.). Bêtông giám nhẹ có dung trọng từ 1800-2000 kg/m3 được chế tạo từ đá dăm với dung trọng của chúng 1600-1900 kg/m3 hoặc không có cát (bê tông lổ rỗng lớn).
Bê tông nhẹ được chế tạo từ cốt liệu rỗng (keramdit, aglôporit, xỉ phồng nở, pemza, tup .v.v.)fg[Ịdụng bê tông nhẹ làm giảm khôi lượng của kết cấu xây dựng.
Bê tông đặc biệt nhẹ gồm các loại bê tông tổ ong (bê tông khí, bê tông bọt), được chế tạo bằng làm phồng nở hổn hợp chất kết dính, phụ gia nghiền mịn và nước với sự trợ giúp của các phượng pháp đặc biệt, bê tông lỗ rỗng lớn dùng cốt liêu nhẹ. Trong bê tông tổ ong cốt liệu thực chất là không khí được nằm trong các hốc nhân tao tạo ra.
2. Theo dạng cốt liệuTheo dạng của chất kết dính chúng được phân ra: bê tông xi măng, silicat, thạch cao, xỉ kiểm, polime bê tông, polime xi măng, và các loại đặc biệt khác.
+ Bê tông xi măng được chế tạo từ xi măng và được sử dụng phổ biến nhất trong xây dựng
+ Bê tông silicat được chế tạo trên cơ sở đá vôi
+ Bê tông thạch cao sử dụng làm các vách ngăn bên trong, các trần treo và các chi tiết trang trí hoàn thiện công trình. Các loại khác nhau của bê tông này có bê tông thạch cao xi măng puzơlan, chúng có tính bền nước cao hơn và được sử dụng khá rộng rãi (các blốc không gian góc vệ sinh, các kết cấu nhà thấp tầng V.V.).
+ Bê tông xỉ kiểm được chế tạo sử dụng xỉ nghiền mịn, được hoà trộn với dung dịch kiềm. Loại bê tông này chỉ mới. được bắt đầu sử dụng trong xây dựng.
+ Polime bê tông được chế tạo từ các dạng khác nhau của chất dính kết polime, gốc của chúng là nhựa (polieste, epoxi, acrin, cacbamit v.v.) hoặc mônome (furfurolaxetôn V.V.), chúng đóng rắn trong bêtông với sự có mặt của các phụ gia chuyên dụng. Các loại bêtông nàý dùng trong các môi trường xâm thực và các điều kiện đặc biệt khắc nghiệt (mài mòn, khử xâm thực v.v.)
+ Polime ximăng bê tông được chế tạo từ chất kết dính hỗn hợp, gồm xi măng và chất pôlime. Các chất pôlime được sử dụng gồm nhựa và các mủ, nhựa cây tan trong nước.
Các tính chất của bê tông chất kết dính vô cơ có thể được nâng cao bằng cách tẩm mỏnôme và làm đóng rắn chúng sau đó ở trong các lỗ rỗng và mao quản của bêtông. Các loại vật liệu tương tự được gọi là bê tông polime.
Các bê tông chuyên dụng được chế tạo sử dụng các chất kết dính đặc biệt. Đối với bê tông bền nhiệt và bê tông chịu nhiệt sử dụng thuỷ tinh lỏng cùng với nátri ílosilicát, phốt phát, magiê và các chất kết dính khác. Chất kết dính chuyên dụng có thể là 1 nhephelin, thủy tinh kiềm v.v, được chế tạo từ phế thải công nghiệp nên chúng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiết kiệm xi măng và bảo vệ môi trường. Một dạng khác của bê tông là bê tông nung, nhận được khi đốt nóng ở nhiệt độ cao có xuất hiện pha lỏng, sau khi đóng rắn chúng đóng vai trò chất kết dính, liên kết các hạt cốt liệu với nhau và tạo thành bê tông. Cốt liệu để chế tạo loại bê tông này cẩn ổn định nhiệt, U.J xảy ra các phản ứng phân giải khi nung.
Mạnh Thân (TH)