Theo thống kê đến thời điểm năm 2014, các Nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) ở Việt Nam thải ra khoảng khoảng 5 triệu tấn tro xỉ/năm. Tro bay có thể sử dụng thay thế 20-30% lượng
xi măng cho sản xuất
bê tông thông thường hoặc bê tông yêu cầu sử dụng trong
môi trường xâm thực mạnh, bê tông công trình biển.
Bê tông đầm lăn, bê tông khối lớn lượng dùng
tro bay có thể lến đến hơn 200 kg/m3 bê tông.
Với kết quả nghiên cứu của đề tài này, việc sử dụng tro bay NMNĐ đốt than phun sử dụng than antraxit Quảng Ninh với lượng mất khi nung (MKN) đến 20% cho sản xuất xi măng, bê tông và vữa xây dựng ở Việt Nam (bê tông, vữa không sử dụng phụ gia cuốn khí do chúng ta không có vùng khí hậu băng giá) là có thể chấp nhận được. Tuy vậy, hiện nay chúng ta đang có tiêu chuẩn TCVN 10302:2013 về tro bay cho bê tông, vữa xây dựng và xi măng trong đó lượng MKN cho phép đến 12% và 15% cho bê tông cốt thép và không cốt thép tương ứng, do vậy, trên cơ sở đảm bảo chất lượng các kết cấu bê tông đặc biệt là bê tông cốt thép và lượng MKN trong tro bay thực tế ở hầu hết của NMNĐ đốt than phun ở Việt Nam hiện nay, các ngưỡng quy định này là phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Hình dạng mẫu vữa ngâm trong môi trường Na2SO4 sau một năm.
Đối với tro bay NMNĐ theo công nghệ đốt tầng sôi sử dụng than antraxit Quảng Ninh, do những ảnh hưởng bất lợi của chúng đến tính chất của
bê tông cốt thép, bê tông và vữa xây dựng nên cần có thử nghiệm đánh giá trước khi sử dụng, đặc biệt là khi sử dụng chúng cho chế tạo bê tông và vữa xây dựng tiếp xúc với môi trường xâm thực và các
kết cấu có sử dụng cốt thép.
Nhóm tác giả cũng kiến nghị cần có các nghiên cứu bổ sung đối với tro bay sử dụng nguồn than nhập ngoại cho NMNĐ ở Việt Nam trước khi đưa vào sử dụng cho cho
bê tông, vữa và
xi măng, đặc biệt với tro xỉ của NMNĐ sử dụng các loại than không có ở Việt Nam (ví dụ than nâu).
Theo Báo Xây dựng