Bài viết này được đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn thể hiện quan điểm
chủ quan của tác giả, tuy nhiên đó cũng là những ý kiến có giá trị mà
các cơ quan quản lý ngành và doanh nghiệp xi măng Việt Nam nên tham
khảo, vlxd.org xin đăng tải lại.
Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam phát biểu tại hội thảo
ở Hà Nội được Bộ Xây dựng tổ chức ngay sau một năm xuất khẩu rất thành công của ,
với 21 triệu tấn được xuất đi và mang về 1 tỉ đô la Mỹ. Đây là thành
tích chưa từng có. Vì vậy, tại hội thảo này Thứ trưởng Bộ Xây dựng
Nguyễn Trần Nam đề xuất đưa trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực vì “Chúng ta có trên 12 tỉ tấn đá vôi, nếu
như hiện nay thì sử dụng hàng trăm năm cũng không hết. Liệu 20 năm nữa
người ta có còn dùng xi măng không hay là dùng chất kết dính khác”.
Nhưng những người có kinh nghiệm với lại nghĩ hoàn toàn khác. Theo họ, xuất khẩu xi măng là thị trường luôn bấp bênh và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đồng thời hiệu quả mà
mang lại cho doanh nghiệp thường rất thấp, nên việc xuất khẩu chỉ nên
xem là một giải pháp tình thế khi nhu cầu tiêu thụ trong nước suy giảm
và năng lực sản xuất thì quá dư thừa như hiện nay.
Xi măng là sản
phẩm có trọng lượng lớn, cồng kềnh nhưng giá trị lại thấp, nên chi phí
xếp dỡ và cước vận chuyển luôn là điều bất lợi về giá thành đối với bất
kỳ nhà sản xuất nào trên thế giới. Đây là đặc điểm không thể không tính
đến khi muốn đưa xi măng trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Hơn nữa,
bảo quản khó và thời hạn bảo quản ngắn, thường chỉ được khoảng sáu
tháng. Chính vì thế, các tập đoàn xi măng lớn của thế giới luôn chọn
giải pháp đầu tư sản xuất để đáp ứng nhu cầu cho từng địa phương, thay
vì tập trung sản xuất vào một chỗ để xuất khẩu như với một số ngành công
nghiệp khác.
Năm ngoái chúng ta đã xuất khẩu được 21 triệu tấn ,
nhưng kinh nghiệm thực tế cho thấy việc xây dựng một thị trường xuất
khẩu ổn định, hay bền vững như tên gọi của chủ đề hội thảo nêu trên, là
gần như không thể. Vì ngay khi năng lực sản xuất ở một thị trường nào đó
tăng lên là lập tức hàng nhập khẩu sẽ bị đánh bại do không thể cạnh
tranh về giá. Đây chính xác là những gì đã diễn ra ở thị trường Việt Nam
trong những năm qua.
Ngoài ra, cái giá phải trả cho môi trường
cũng phải được đưa lên bàn cân khi có ý định đưa xi măng thành sản phẩm
xuất khẩu chủ lực. Nguyên liệu chính để sản xuất xi măng là đá vôi. Khai
thác đá vôi để làm xi măng là đồng nghĩa với việc phải hy sinh những
thảm thực vật, những cánh rừng. Trong khi đó, mỗi tấn xi măng xuất khẩu
chỉ thu được khoảng 55 đô la Mỹ, nhưng riêng
đã chiếm tới 45-50% chi phí sản xuất. Nếu cộng thêm khấu hao thiết bị,
lương công nhân và các chi phí khác, thì số tiền kiếm được từ xuất khẩu
có đủ bù đắp cho thiệt hại về môi trường?
không phải tài nguyên tái tạo và con số trữ lượng 12 tỉ tấn mà đại diện
Bộ Xây dựng công bố không phải là nhiều. Thế nên, nỗi lo “liệu 20 năm
nữa người ta có còn dùng xi măng không hay là dùng chất kết dính khác”,
để từ đó phải tận dụng cho hết tiềm năng đá vôi vào sản xuất xi măng,
chỉ là ý nghĩ chủ quan.
Theo /TBKTSG
Ý kiến của bạn