Sau
khi hai tập đoàn hàng đầu thế giới là Lafarge (của Pháp, sản lượng 224
triệu tấn/năm từ 161 nhà máy lớn, không tính các trạm nghiền) và
(Thụy Sỹ, 218 triệu tấn/năm từ 147 nhà máy) đã hợp nhất với nhau mới
đây thì họ vượt lên hẳn các tập đoàn của Trung Quốc như CNBM (221 triệu
tấn/năm), Anhui Conch (217 triệu tấn/năm) và khoảng 22 tập đoàn xi măng
khác của Trung Quốc mà mỗi tập đoàn đều đạt sản lượng cao hơn tổng sản
lượng của 106 nhà máy hiện đang hoạt động ở Việt Nam.
Ai vẽ lại bản đồ dòng chảy xi măng thế giới?Về cấu trúc
và phân phối xi măng nói chung, 13 tập đoàn xi măng đang chiếm
thị phần
khoảng hai phần ba của toàn thế giới. Đứng đầu là LafargeHolcim. Hai
văn phòng của họ tại Singapore và Dubai hoạt động rất mạnh. Và để triển
khai chiến lược toàn cầu như HeidelbergCement, Italcementi, Cemex... hay
chiến lược khu vực như Dangote, Wacem.., hiện nay, 40% tổng sản lượng
vận chuyển xi măng đường biển của cả thế giới nằm trong tay 4 tập đoàn
lớn nhất. Họ cũng sở hữu 31% tải trọng số tàu chuyên dụng.
Trung
Quốc cũng chỉ mới gần đây đầu tư nhà máy vào Indonesia và tham gia mua
bán - sáp nhập (M&A) chủ yếu về vốn tại một số nước châu Phi. Tuy
chưa xây dựng cảng và trạm nghiền sát biển để xuất , nhưng các nhà phân tích đều nhận định là Trung Quốc, với mức tăng về chỉ còn ở mức 2,1% (dưới mức bình quân toàn thế giới là 4,6%), sẽ gây ra một cơn lũ giá rẻ, và nhấn chìm một số vùng, vẽ lại bản đồ dòng chảy xi măng thế giới.
Như
thế, có thể nói “rừng nào cọp nấy”, “rừng nào cũng đã có nhiều cọp” và
các tập đoàn lớn đã bao vây chúng ta, mà khả năng tham gia vốn hoặc
M&A cũng như đầu tư ra nước ngoài (thí dụ ở Myanmar hay Bangladesh)
thì đều gặp phải mấy điểm yếu chính sau đây: vốn, công nghệ (chủ yếu là
ta mua và dựa vào FLSmidth và ThyssenKrupp Polysius), đội ngũ kỹ sư,
ngành cơ khí phụ trợ và khung pháp lý.
Việc
xuất khẩu xi măng của
Việt Nam, về thực chất, chỉ là điều tiết trong giai đoạn có thể bị
khủng hoảng thừa, chứ rất khó trở thành một chiến lược phát triển , vì thiếu sức mạnh nội tại về vốn và công nghệ. Lĩnh vực xi măng lệ
thuộc rất lớn vào mạng lưới phân phối và lợi nhuận, nếu có, thường thu
được ở thị trường nội địa, thị trường có cự ly gần, dễ vận chuyển và nhu
cầu vừa cao vừa lâu dài.
Xin lưu ý là số lượng buôn bán sản phẩm
xi măng bằng đường biển quốc tế chưa bao giờ vượt quá 3% tổng sản lượng
toàn cầu. Và Việt Nam với tỷ lệ sản lượng xi măng và clinker xuất khẩu
so với tổng sản lượng tự làm ra tương đương Iran (tức 18-19%) sẽ đứng
trước nhiều thách thức, rủi ro và sự bấp bênh hơn là cơ hội mang tính
bền vững.
trên toàn thế giới gần như đứng yên từ mấy năm nay. Trong khu vực phía
Đông của châu Á, giá xi măng của Trung Quốc gần như luôn ở mức thấp
nhất. Trong suốt gần mười năm qua, lấy giá FOB của loại xi măng 42.5N và
42.5R là hai loại được mua bán nhiều nhất trên thế giới (tương đương
PC500 và PCB500), giá của Việt Nam chỉ trong khoảng 50-53 đô la Mỹ/tấn,
thấp hơn giá xi măng trong khu vực khoảng 10%, nhưng ngặt một chuyện là
xấp xỉ giá của Trung Quốc và thêm nữa là cước vận chuyển cao (không có
cảng chuyên xuất xi măng và clinker, không có tàu chuyên dùng để vận
chuyển an toàn sản phẩm trong mùa mưa) nên vẫn khó đi xa. Giá FOB cho
clinker chỉ khoảng 38 đô la Mỹ/tấn.
Vấn nạn hiện nay là giá điện
và giá than tăng liên tục. Tổng chi phí năng lượng đang chiếm 50% giá
thành xi măng. Và kinh nghiệm của tập đoàn hàng đầu thế giới là Anhui
Conch sản xuất 103 triệu tấn/năm nhưng lợi nhuận chỉ là 502 triệu đô la
Mỹ, nghĩa là lợi nhuận chỉ khoảng 5 đô la Mỹ/tấn, chưa tới 10%.
Giá
thành là một vấn đề lớn. Mặc dù giá nội địa hiện nay cao hơn giá xuất
khẩu. Bán nội địa có thể có lãi nếu vận chuyển và phân phối tốt và thị
trường bất động sản ấm trở lại. Nhà nước thu được thuế VAT. Vậy thì xuất
khẩu không thể là cứu cánh mà chỉ là phương tiện điều tiết mà thôi.
Câu chuyện Việt Nam
Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, tổng trị giá 2014 của Việt Nam là 912,4 triệu đô la Mỹ, với 10 nước nhập nhiều nhất như sau:
Nước nhập khẩu (đơn vị tính: trị giá/triệu đô la Mỹ)
: 322 (35,3%)
Indonesia: 123 (13,5%)
Malaysia: 62
Philippines: 44,2
Chile: 31,1
Campuchia: 27,5
Lào: 23,1
Úc: 20,6
Peru: 20,4
Sri Lanka: 10,7
Trong năm 2014, tổng sản lượng xi măng của toàn thế giới là 4,18 tỉ tấn,
trong đó, người khổng lồ Trung Quốc làm ra 2,5 tỉ tấn (chiếm 60%), gấp
36 lần sản lượng của cả nước ta (đứng hàng thứ 8) .
Ấn Độ và Mỹ rất đông dân nhưng cũng chỉ sản xuất 280 và 83,3 triệu tấn,
đứng thứ nhì và thứ ba, với khoảng cách khá xa so với Trung Quốc.
So với 10 năm trước, sản lượng xi măng toàn cầu đã tăng gấp đôi.
|
Thị
trường và clinker của Việt Nam tương đối bó hẹp, mang
tính cách tình thế và chưa thể nói đến thị trường ngách với lợi nhuận
cao (niche market) kiểu như xi măng P600 cho Brunei với giá gần gấp đôi
loại thông dụng.
Cơ hội ở Bangladesh là do cơn sốt vật liệu xây dựng ở đây còn kéo dài.
đã tranh thủ được thời cơ và một phần nhờ đó vượt qua khó khăn riêng,
sau khi được Viettel mua lại. Cơ hội ở Indonesia cũng nhờ vào đối tác
chiến lược
(sản xuất 30 triệu tấn/năm) nắm 70% cổ phần
Xi măng Thăng Long. Thị
trường Myanmar rất khó đầu tư có lợi, xét về lâu về dài, vì bị khống chế
mức dưới 2.000 tấn/ngày và không có đội ngũ công nhân khá giỏi như
50.000 công nhân Việt Nam hiện nay.
Thái Lan đang chiếm đến 70% tổng lượng hàng xi măng nhập khẩu vào Myanmar, với thương hiệu Elephant và Diamond.
Vicem
và
Vissai là hai nhà xuất khẩu tiềm năng nhất, nghĩa là có khả năng
tiếp cận, nghiên cứu thị trường và điều tiết cung cầu hiệu quả.
Thị
trường xuất khẩu xi măng tuy nhỏ nhưng tương đối ổn định, bền vững hơn
đối với Việt Nam là Lào, Campuchia, Philippines, Singapore, Indonesia va
Bangladesh. Số lượng xi măng xuất đi để điều tiết, giảm tác động dư
thừa sản phẩm không nên lưu kho lâu, nên nằm dưới con số 5 triệu tấn/năm
để không vượt ngưỡng an toàn.
Các yếu tố để vượt rào cản
Như
đã trình bày ở trên, việc xuất khẩu xi măng và clinker chỉ là phương
tiện điều tiết chứ không phải là mục tiêu chính của ngành xi măng Việt
Nam. Sự phát triển bền vững của toàn ngành, kể cả việc xuất khẩu, chính
là nhờ khả năng nội tại của thị trường trong nước.
Việc kích cầu
rất quan trọng để ngành xi măng phục vụ hiệu quả nhất cho sự nghiệp hiện
đại hóa, công nghiệp hóa. Quỹ đạo đã được vạch ra, nhưng tốc độ cần
được điều chỉnh cho phù hợp để hoạt động có lãi, góp phần kiềm chế lạm
phát và ổn định vĩ mô, thúc đẩy sự ấm lại một cách lành mạnh của ngành
xây dựng nhà ở, công trình và bất động sản nói chung.
Việc thường
xuyên điều chỉnh các chỉ tiêu theo Quyết định số 1488/QĐ-TTg ngày
29-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển công nghiệp xi
măng Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và định hướng đến năm 2030 là rất cần
thiết.
Thí dụ, năm 2015 sẽ không có dự án nào được đưa vào hoạt
động. Nguồn cung xi măng cả nước còn khoảng 82,6 triệu tấn/năm là tối
đa, giảm gần 12 triệu tấn so với con số 94,2 triệu tấn/năm trong quy
hoạch theo Quyết định 1488 nói trên.
Việc liên kết quốc tế để
nhận cung ứng cho các công trình tầm cỡ quốc gia, các đơn hàng đặc biệt,
các kênh phân phối thuận lợi về vận chuyển, giá cạnh tranh hơn và mang
tính kế hoạch cao, cũng là một việc rất đáng được quan tâm.
Điều
cấp bách nhất hiện nay là giải quyết bài toán giá thành. Bài toán này
phục vụ cho xuất khẩu và cho cả thị trường nội địa. Mà muốn giảm giá
thành thì phải xem xét lại việc ngành xi măng tự đáp ứng một phần nguồn
điện từ tái sử dụng năng lượng, xem lại việc sử dụng chất đốt (phần lớn
là than đá là loại than cao cấp, và số lượng dầu FO đang rẻ thì lại ít
dùng. Cả nước chỉ nhập 5% lượng FO Mazut trong tổng số xăng dầu) nên cần
xem xét và cân nhắc để quyết định sớm việc cho phép nhập những nguồn
than vừa phù hợp vừa rẻ hơn than nội địa khá nhiều (chủ yếu là các loại
tương đương than 3C và 4A hiện đang dùng, mà chi phí than đang chiếm đến
32% giá thành).
Giải quyết được những vấn đề trên, ngành xi măng sẽ vững tiến đi đến tương lai hiện đại hóa.
Cũng xin lưu ý một điều nhỏ có vẻ như lạc đề để thay lời kết. Hiện đại hóa, công nghiệp hóa không có nghĩa là bê tông hóa. không thay thế cây xanh, mà bê tông sẽ đẹp hơn, hữu ích hơn cho con người khi sống cùng cây xanh.
Theo /TBKTSG *