Cá cược game - Game Thể Thao 24H

Thông báo Việc làm Hỏi đáp chuyên ngành

Xi măng

Những vấn đề về xuất khẩu của ngành xi măng

04/07/2015 - 04:29 CH

Việt Nam được biết đến là quốc gia có nguồn tài nguyên và nguyên liệu phục vụ cho sản xuất khá dồi dào. Chất lượng các sản phẩm xi măng và clinker của chúng ta không thua kém các nước trong khu vực nhưng hiện tại giá xuất khẩu cho các mặt hàng này của Việt Nam thường thấp hơn. Điều này cho thấy xuất khẩu xi măng của Việt Nam đang tồn tại nhiều vấn đề cần được cụ thể hóa bằng các chính sách.
>> Xuất khẩu xi măng và clinker: DN Việt “đuối” sức cạnh tranh
>> Những thách thức đối với xuất khẩu xi măng trong năm 2015


Thuận lợi


Việt Nam có nguồn nguyên liệu sản xuất xi măng dồi dào và có chất lượng. Cụ thể là trữ lượng trên toàn quốc ở dạng tài nguyên ước tính: đá vôi trên 32 tỷ tấn, đất sét xi măng trên 4,6 tỷ tấn, phụ gia làm xi măng trên 3,6 tỷ tấn. Trong đó đã khảo sát và thăm dò ở mức độ có thể cấp phép khai thác, đã đưa vào Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm nguyên liệu xi măng Việt Nam đến năm 2020: đá vôi trên 12,5 tỷ tấn, đất sét xi măng trên 2,9 tỷ tấn và phụ gia xi măng gần 0,3 tỷ tấn. Với trữ lượng như vậy, Việt Nam có đủ để sản xuất xi măng cho hàng trăm năm tiếp theo.

Sản xuất xi măng là chế biến sâu khoáng sản, sản phẩm xi măng là kết quả của một chuỗi giá trị gia tăng. Khoáng sản làm xi măng được tính toán và có quy hoạch, được cấp phép khai thác trên nguyên tắc chặt chẽ sau khi có đánh giá tác động môi trường. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương tăng cường khai thác và sử dụng khoáng sản hiệu quả phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, khuyến khích chế biến sâu khoáng sản, bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử và đảm bảo an ninh quốc phòng. Sản xuất xi măng được đánh giá là việc chế biến sâu khoáng sản, làm tăng giá trị gia tăng của khoáng sản.

Việt Nam là đất nước có bờ biển dài, có lợi thế trong việc xuất khẩu. Tuy nhiên lợi thế này chưa được khai thác triệt để và hiệu quả, vì chúng ta chưa có cảng chuyên dùng để bốc dỡ sản phẩm xi măng, chưa có hệ thống logistics đảm bảo cho việc xuất khẩu hiệu quả.

Điều tiết nội địa, đặc biệt trong giai đoạn suy thoái kinh tế. Năm 2013, cả nước tiêu thụ 61 triệu tấn sản phẩm, trong đó xuất khẩu 15 triệu tấn. Nhờ đó mà các dây chuyền vẫn duy trì sản xuất, các doanh nghiệp vẫn có tiền khấu hao thiết bị, trả nợ ngân hàng, trong khi tiêu thụ nội địa giảm sút và các dây chuyền mới đã triển khai trước đây vẫn phải hoàn thành, vẫn bổ sung thêm công suất. Cũng nhờ lượng xuất khẩu đó (có thể gọi là công suất dự trữ), mà khi kinh tế  lấy lại đà tăng trưởng, Việt Nam sẽ không sợ thiếu xi măng cho thị trường nội địa.

Ngoài ra xuất khẩu còn có tác dụng nâng cao năng lực kinh doanh của ngành, làm quen với thị trường quốc tế, tiếp cận thông tin về công nghệ sản xuất, trình độ công nghệ và quản lý của Thế giới. Các nước có điều kiện sản xuất xi măng như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan cũng duy trì việc xuất khẩu để điều tiết.

Nhật Bản, một đất nước được xem là hiếm tài nguyên nhưng thường xuyên  có nhu cầu đột xuất về xi măng, vẫn xuất khẩu xi măng để duy trì sản xuất và điều tiết thị trường nội địa. Nhật Bản trong điều kiện bình thường xuất khẩu 14% sản lượng, nhưng trong điều kiện bị ảnh hưởng suy thoái cũng đã xuất khẩu tới gần 20% sản lượng.

Vì vậy chúng ta nên duy trì mức độ xuất khẩu hợp lý. Trong điều kiện bình thường, nước ta vẫn nên bố trí tỷ lệ xuất khẩu từ 10 – 15% sản lượng xi măng tiêu thụ. Trong giai đoạn suy thoái chúng ta có thể xuất khẩu trên 20% sản lượng để điều tiết mà không lo ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu trước mắt và lâu dài.

Bước tiến trong xuất khẩu

Những kết quả đạt được trong xuất khẩu sản phẩm xi măng của các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy chúng ta có đủ điều kiện để xuất khẩu. Tuy mới 4 năm vừa tham gia xúc tiến thương mại, vừa triển khai xuất khẩu nhưng các doanh nghiệp xi măng của ta đã đạt được được những thành công nhất định.

Giá xuất khẩu xi măng đã có chiều hướng tăng, giá năm 2013 cao hơn năm 2012, giá xi măng xuất khẩu năm 2014 tăng hơn so với năm 2013. Theo báo cáo của các doanh nghiệp xi măng trong nước mỗi năm giá xi măng xuất khẩu tăng khoảng 2USD/tấn.

Tỷ trọng xi măng trong xuất khẩu của Việt Nam đạt trên dưới 25%, đây là con số có ý nghĩa đối với ngành xi măng bởi có thời điểm Việt Nam phải nhập 100% clinker.

Hạn chế

Chưa có nhiều kinh nghiệm khi chỉ mới tham gia thị trường xuất khẩu vẻn vẹn có 4 năm, hơn thế, các doanh nghiệp sản xuất xi măng chưa chịu đầu tư cho việc tìm kiếm thị trường, hầu như tất cả đều thông qua các đối tác thương mại nước ngoài, chưa có thị trường ổn định lâu dài…

Hiện nay ở Việt Nam chưa có cảng chuyên dùng cho việc xuất trực tiếp sản phẩm xi măng, đặc biệt là clinker, hệ thống logistics còn thiếu chưa đồng bộ gây khó khăn cho công tác xuất khẩu.


Cảng xuất xi măng và clinker của nhà máy Xi măng Thăng Long.

Các doanh nghiệp sản xuất xi măng chưa ký được các hợp đồng xuất khẩu dài hạn trong thương mại quốc tế, những hợp đồng này bao giờ cũng có lợi thế về giá cho bên bán.

Sự kết hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành của Việt Nam còn hạn chế trong việc thống nhất giá xuất khẩu chung, các đối tác nước ngoài đã lợi dụng yếu điểm này để dìm giá xuất khẩu của xi măng Việt Nam mặc dù chất lượng của Việt Nam cũng tương đương với các nước bạn.

Từ trước đến nay, các doanh nghiệp vẫn xem xuất khẩu xi măng như một giải pháp tình thế để giảm tồn kho và bình ổn cán cân cung-cầu nên thiếu sự đầu tư dài hơi cho các chính sách xuất khẩu.

Khắc phục

Muốn làm tốt công tác xuất khẩu xi măng trong thời gian tới, Nhà nước cần có định hướng cụ thể cho việc xuất khẩu dài hơi và tính toán hợp lý sản lượng xi măng xuất khẩu để không làm ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu tại thời điểm hiện tại và trong tương lai. Bên cạnh đó, Nhà nước cần điều tiết khi nguồn cung cân bằng hoặc thiếu so với nhu cầu, có thể áp dụng thuế xuất khẩu từ 5 – 10%.

Đồng thời các Bộ, ban ngành liên quan cần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong việc xúc tiến thương mại.

Khuyến khích các doanh nghiệp ngành xi măng đầu tư có chiều sâu, bền vũng cho thị trường xuất khẩu từ khâu tìm kiếm, khai thác thị trường, logistics, cho đến các vấn đề về nâng cao công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm để tạo ra lợi thế cạnh tranh…

Hơn hết, việc cần làm ngay bây giờ, Việt Nam cần đầu tư các cảng chuyên dùng bốc xếp các sản phẩm xi măng như trong Quyết định 1488 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ GTVT có trách nhiệm rà soát, điều chỉnh và có kế hoạch triển khai quy hoạch giao thông, trong đó có cảng bốc xếp clinker và xi măng cho phù hợp.

Hiệp hội Xi măng Việt Nam cũng cần tăng cường hoạt động của mình trong việc cung cấp các thông tin, tạo mối liên quan mật thiết giữa các doanh nghiệp sản xuất xi măng trong nước nhằm nâng cao hiệu quả và tạo một môi trường xuất khẩu lành mạnh, bền vững.

Nguồn:

Ý kiến của bạn

Thương hiệu vật liệu xây dựng